Tục ngữ cũng có câu: "Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chuồng heo, ba vợ nằm chèo queo". "Giường lèo" là loại giường có chạm trổ tinh vi, làm bằng gỗ quý. Vào miền Nam, nhiều người mê món "bún nước lèo". Chẳng hạn, ở Sóc Trăng dùng mắm cá sặt còn ở Trà Vinh dùng mắm bò hóc để nấu nước lèo.
Vợ ông Quy là bà Bùi Thị Thiệt nằm trên một giường bệnh bỏ trống để chăm chồng than phiền nằm điều trị ở đây rất nóng, nhưng bật công tắc quạt thì quạt không quay được. Bà Thiệt đã báo với bệnh viện nhiều ngày rồi nhưng chẳng thấy ai đến sửa.
Cuối tuần này là 100 ngày của chị - người mẹ, người vợ, người đồng nghiệp đáng mến của nhiều người. Chúng tôi xin chia sẻ đến bạn đọc bài viết đong đầy yêu thương do người chồng của chị viết. Mới nhất Hà Nội. 23°C / 22-25°C. Xã hội
Lý Quí Chung sinh sau Trịnh Công Sơn hơn một năm (01/09/1940) tại Mỹ Tho, cũng học trường Chasseloup-Laubat, ban Triết, và mất sau Trịnh Công Sơn 4 năm, ngày 03/03/2005, cũng tại Sài Gòn.
Chuyện Của Ba Tui Minh vừa mút liếm 2 mép lồn của Min Deng thì Min Deng cũng xoa xoa nhè nhẹ lên con cu của Minh, lòn tay bóp nhẹ 2 hòn dái.
Pr4x. Giường lèo mà trải chiếu mây Giường lèo mà trải chiếu mây Làm trai hai vợ như dây buộc mình Cùng thể loại Chồng chài, vợ lưới, con câu Chồng chài, vợ lưới, con câu, Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà. Trồng cây ai nỏ muốn cây xanh Trồng cây ai nỏ muốn cây xanh, Cha mẹ sinh thành ai nỏ muốn con nên? Áo rách thì để thịt ra Áo rách thì để thịt ra Chị gần không khỏi em xa không chào Mẹ ru con ngủ cho ngoan Mẹ ru con ngủ cho ngoan, Mẹ còn xúc nốt xe than cho đầy, Mẹ ru con ngủ cho say, Làm xong chuyến nữa nghỉ tay mẹ về Ngó lên tam sơn, nguồn cơn cảm động Ngó lên tam sơn, nguồn cơn cảm động, Ngó về tứ hải, biển rộng sông dài; Ơi người tảo tần nuôi mẹ hôm mai, Trong tâm ảo não, nhớ nhau hoài không quên. Ba đồng một quả đậu xanh Ba đồng một quả đậu xanh, Một cân đường cát, đưa anh ra vời Nửa đêm ra đứng giữa trời Nửa đêm ra đứng giữa trời, Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn Ở nuôi cha mẹ trọn niềm Ở nuôi cha mẹ trọn niềm, Bao giờ trăng khuyết lưỡi liềm sẽ hay. Vui đâu cho bằng vui nhà Vui đâu cho bằng vui nhà, Có con có vợ mới là thật vui. Dạy con nhủ vợ mọi lời, Gốc kia vững chắc thì chồi mới xanh. Anh ơi gà đã gáy dồn Anh ơi gà đã gáy dồn, Dậy đi xúc ốc đồng Tròn, đồng Quang, Rổ sề, rổ sảo, rổ sàng Vợ bưng, chồng gánh kịp hàng chợ phiên Có cùng từ khóa Chiếu bông chiếu trắng chiếu ngắn chiếu dài Chiếu bông chiếu trắng chiếu ngắn chiếu dài Tự em trải chiếu cho em ngồi Gá duyên không đặng bồi hồi lá gan Vè bán chiếu Ai mua chiếu hông Chiếu bông chiếu trắng Chiếu vắn chiếu dài Chiếu dệt lầu đài Cổ đồ bát bửu Chiếu tây hột lựu Da lợn bông bao Chiếu rộng màu cau Con cờ, mặt võng Dệt bông chong chóng Ngũ sắc, bá huê Đẹp hết chỗ chê Ngôi sao, tùng lộc Chiếu trải giường hộc Chiếu trải giường Tàu Chiếu trải giường trước Chiếu trải giường sau Chiếu nào cũng có đủ Trong gia chủ ai muốn mua thì mua Một tấm thanh tre là nghĩa Một tấm thanh tre là nghĩa, Một chiếc chiếu là tình, Bấy lâu nay em thương bóng nhớ hình, Bây giờ em hỏi thiệt anh có thương mình hay không? Nằm giường lèo lại đòi trèo trướng phụng Nằm giường lèo lại đòi trèo trướng phụng Dẫu ai trề nhún, nó cũng làm ngang Một khi bị đạp xuống sàn Ngủ chung với chó, còn than nỗi gì Anh như tán tía tàn vàng Anh như tán tía tàn vàng Em như manh chiếu rách bà hàng bỏ quên Lạy Trời cho cả nước lên Cho manh chiếu rách lên trên tàn vàng Một vợ thì nằm giường lèo Một vợ thì nằm giường lèo Có gối tai bèo, sáo rủ, màn treo Hai vợ thì nằm chèo queo Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng, Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi. Con rồng nằm bãi cát bày vi, Vì chưng thương bạn nên ra đi làm vầy. Ra đi cha đánh, mẹ ngầy, Không đi bạn ở ngoài này bạn trông. Buồn tình em lắm anh ơi Buồn tình em lắm anh ơi Không phải thiếu tiền, thiếu gạo, chỉ thiếu chiếc chiếu đôi mà buồn Chiếu bông mà trải góc đền Chiếu bông mà trải góc đền Muốn vô làm bé, biết bền hay không Từ rày giã bạn bạn ơi Từ rày giã bạn bạn ơi Chiếu bạn bạn ngồi, trầu bạn bạn ăn Giường lèo Loại giường bằng gỗ quý, chạm trổ công phu, có nguồn gốc từ Lào. Trước đây loại giường này thường được các nhà quyền quý đặt thợ người Lào làm, nên gọi là giường lèo đọc trại chữ Lào. Sau này thợ của ta cũng làm được loại giường này, nhưng vẫn giữ tên giường lèo. Mây Tên chung của khoảng hơn 600 loài dây leo thuộc họ cọ, thân có nhiều gai, mọc nhiều ở các vùng rừng núi nước ta. Gỗ mây rất dẻo, được khai thác để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đồ dùng trong gia đình như bàn, ghế, đan giỏ đựng... Loài mây được trồng và sử dụng nhiều nhất ở nước ta là mây nếp. Dây mây Bể Sở, sông Ngô Ở khắp mọi nơi Sở và Ngô là hai nước thời Xuân Thu, Trung Quốc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành Truyện Kiều Nò Một hệ thống ngư cụ gồm nhiều cọc tre và lưới khá lớn và phức tạp, được đặt ở hướng nước chảy để hứng luồng cá lúc nước ròng. Nò cá nò sáo Tam sơn, tứ hải Chỉ mặt đất. Người xưa cho mặt đất gồm tám phần núi ba, biển bốn, ruộng đất một tam sơn tứ hải nhất phần điền. Tảo tần Cũng như tần tảo, chỉ người phụ nữ khéo thu vén công việc trong nhà. Tần 苹 là bèo, tảo 藻 là rong, hai thứ rau cỏ mọc dưới nước, người Trung Hoa cổ dùng vào việc cúng tế. Thơ "Thái tần" trong Kinh Thi ca ngợi người vợ biết chu toàn việc cúng tế tổ tiên, viết "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo" Hái bèo ở đâu, bên bờ khe nam. Hái rong ở đâu, bên lạch nước kia. "Tảo tần" còn chỉ sự vất vả cực khổ. Ra vời Ra khơi đánh bắt cá. Có bản chép chờ lời chàng phân. Đồng Tròn, đồng Quang Tên hai cánh đồng thuộc nay thuộc địa phận Bái Đô, Đô Mỹ, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Sề Đồ đan mắt thưa, nan thô, rộng, to hơn rổ, thường dùng đựng bèo, khoai... Xảo Đồ đan bằng tre tương tự như giần nhưng có mắt thưa hơn nhiều, thường dùng để lọc lấy thóc và loại bỏ rơm rác. Động tác dùng xảo cũng gọi là xảo. Sàng Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng. Sàng gạo Chợ phiên Chợ họp có ngày giờ nhất định. Gá duyên Kết thành nghĩa vợ chồng. Cổ đồ bát bửu Bức tranh cổ vẽ tám món đồ quý – xem thêm về Bát bửu. Ngũ sắc, bá huê Năm màu, trăm hoa. Tùng lộc Cây tùng và con nai. Tùng tượng trưng cho sức sống bền bỉ và tuổi thọ, còn nai tượng trưng cho địa vị lộc cũng đồng âm với tài lộc, vì vậy tranh vẽ, tranh khắc gỗ, họa tiết gốm… trong dân gian thường vẽ tùng lộc. Tranh tùng lộc Giường hộc Loại giường phía dưới có hộc có thể kéo ra vào, để đựng quần áo, đồ đạc. Giường Tàu Một loại giường theo kiểu Trung Hoa, có thành cao xung quanh. Gia chủ Chủ nhà từ Hán Việt. Trướng Màn. Ngày xưa, tấm màn che buồng người con gái gọi là trướng. Ngoài ra, theo Thiều Chửu Quân đi đến đâu, căng vải lên làm rạp để nghỉ cũng gọi là trướng. Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai Truyện Kiều Tàn Cũng gọi là tán, đồ dùng có cán dài cắm vào một khung tròn bọc nhiễu hoặc vóc, xung quanh rủ dài xuống, để che cho vua quan thời xưa, hoặc dùng trong các đám rước. Cái tàn vàng. Sáo Còn gọi là mành sáo, là tấm đan bằng tre, có nan to, thường treo trước nhà hoặc gần cửa sổ để che nắng. Sáo cũng có thể được treo trước bàn thờ. Mành sáo Ngầy Phiền nhiễu, bực mình. Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Trầu Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu. Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Lá trầu không Một miếng trầu Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
một vợ nằm giường lèo